Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) ra đời, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc. Sự kiện ấy không chỉ mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho Nhân dân ta, mà còn cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới; đồng thời làm các thế lực đế quốc hoảng sợ và điên cuồng chống phá nhằm thủ tiêu Nhà nước cách mạng non trẻ - nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.
Ngay sau ngày độc lập, đất nước ta phải đối mặt muôn vàn khó khăn hiểm nghèo. Ba loại “giặc” cùng lúc hoành hành: giặc đói đe dọa hàng triệu sinh mạng; giặc dốt khiến hơn 90% dân số mù chữ; giặc ngoại xâm từ nhiều phía liên tục chống phá, âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng.
Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, hơn 20 vạn quân Tưởng kéo vào; từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, hơn một vạn quân Anh cùng hơn sáu vạn quân Nhật vẫn lăm le chờ thời cơ gây rối. Nhiều đảng phái phản động hoạt động công khai, ngấm ngầm mưu toan lập lại chính quyền tay sai. Trong khi đó, thực dân Pháp nuôi dã tâm xâm lược nước ta lần nữa.
Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta lần thứ hai. Trước tình hình cực kỳ căng thẳng, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương kiên trì đấu tranh ngoại giao để tránh đối đầu cùng lúc với nhiều kẻ thù, tranh thủ thời gian chuẩn bị lực lượng kháng chiến lâu dài.
Chúng ta đã chủ động đàm phán, ký Hiệp định sơ bộ (6/3/1946), ký Tạm ước (14/9/1946) để giữ hòa bình, giữ độc lập; đồng thời Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới nguyên thủ nhiều nước, bày tỏ thiện chí và mong muốn giải pháp hòa bình cho Việt Nam. Tuy nhiên, tất cả nỗ lực đó bị giới thực dân Pháp ngoan cố bác bỏ.
Bất chấp thiện chí của ta, trong các ngày 15 đến 18/12/1946, quân Pháp liên tục gây hấn ở Hà Nội, phá công sự, tàn sát dân thường và gửi tối hậu thư đòi chiếm đóng nhiều vị trí trọng yếu. Chúng tuyên bố sẽ hành động vào sáng 20/12/1946 nếu Chính phủ Việt Nam không chấp nhận các yêu sách của chúng.
Vậy là kẻ thù đã đặt dân tộc Việt Nam trước hai con đường: Một là khoanh tay, cúi đầu trở lại nô lệ; Hai là đấu tranh đến cùng để giành lấy tự do và độc lập. Tình thế đó buộc Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhân dân ta không có lựa chọn nào hơn là cầm vũ khí đứng lên chiến đấu, phát động cuộc kháng chiến toàn quốc để bảo vệ độc lập dân tộc.
Trong các ngày 18, 19/12/1946 tại Vạn Phúc (Hà Đông), Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyết định phát động cuộc kháng chiến trên phạm vi cả nước. Chiều 19/12/1946, Bộ trưởng Quốc phòng Võ Nguyên Giáp gửi mật lệnh cho toàn quân chuẩn bị chiến đấu.
Lúc 20 giờ, ngày 19/12/1946, tín hiệu bắt đầu kháng chiến toàn quốc được phát ra, đồng thời quân và dân Thủ đô Hà Nội nổ súng mở đầu cuộc kháng chiến trong toàn quốc
Sáng hôm sau, ngày 20 tháng 12 năm 1946, Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (viết ngày 19 tháng 12 năm 1946) được phát đi khắp cả nước, trở thành hiệu triệu thiêng liêng của dân tộc:
“Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ…”
Lời kêu gọi kết tinh ý chí quật cường, khát vọng độc lập, tinh thần bất khuất ngàn đời của dân tộc Việt Nam; lay động lòng người, khơi dậy sức mạnh của toàn dân tộc, thôi thúc cả nước nhất tề đứng lên chiến đấu.
Cùng với Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” (viết ngày 12/12/1946) của Ban Thường vụ Trung ương Đảng và tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” của Tổng Bí thư Trường Chinh, Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến đã xác lập đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và dựa vào sức mình là chính; trở thành ánh sáng soi đường cho dân tộc ta đi đến thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Thực hiện Lời kêu gọi toan quốc kháng chiến, Thủ đô Hà Nội trở thành chiến trường trọng điểm. Trong 60 ngày đêm (19/12/1946 - 17/2/1947), quân và dân Thủ đô chiến đấu kiên cường, sáng tạo, giam chân địch trong thành phố, tạo điều kiện cho Trung ương Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các cơ quan đầu não rút lên Việt Bắc an toàn.
Nhiều máy móc, thiết bị, tài liệu quan trọng được chuyển ra căn cứ; Nhân dân thực hiện chính sách “vườn không nhà trống”, tản cư để bảo toàn lực lượng, xây dựng hậu phương kháng chiến. Cùng với Thủ đô, các đô thị Bắc Bộ, Trung Bộ đều đồng loạt đứng lên; Nam Bộ, Nam Trung Bộ, Tây Nguyên tiếp tục chiến tranh du kích, kìm hãm, làm tiêu hao sinh lực địch.
Đến tháng 3 năm 1947, các cơ quan của Trung ương Đảng, Chính phủ, Quân đội, Mặt trận đã được chuyển lên Việt Bắc an toàn. Căn cứ địa Việt Bắc hình thành và trở thành Thủ đô kháng chiến.
Khi cơ hội tìm kiếm giải pháp hòa bình không còn, cuộc kháng chiến toàn dân chính thức bước vào thời kỳ trường kỳ, tự lực cánh sinh. Đời sống đông bào dần được ổn định, căn cứ địa được xây dựng, lực lượng vũ trang ba thứ quân phát triển mạnh.
Năm 1947, thực dân Pháp mở cuộc tấn công quy mô lớn lên Việt Bắc với hy vọng “đánh nhanh, thắng nhanh”, tiêu diệt cơ quan đầu não của ta. Nhưng quân và dân ta đã giành thắng lợi vang dội trong Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947, làm phá sản chiến lược “đánh nhanh” thắng nhanh” của thực dân Pháp, buộc chúng chuyển sang “đánh kéo dài”.
Từ năm 1950, thế và lực của ta phát triển vượt bậc. Trong Chiến dịch Biên giới năm 1950, quân dân ta giành thắng lợi và làm chủ một phần vùng biên giới phía Bắc, mở thông đường liên lạc quốc tế, tạo ra bước ngoặt quan trọng đưa cuộc kháng chiến sang giai đoạn phản công.
Từ năm 1951, Đại hội II của Đảng đề ra nhiệm vụ tiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại sự can thiệp của Mỹ. Ta liên tiếp giành thắng lợi trên các chiến trường: Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào… chiến tranh nhân dân phát triển mạnh mẽ, đẩy địch vào thế bị động, phòng ngự.
Được Mỹ viện trợ, thực dân Pháp lập Kế hoạch Nava nhằm giành lại thế chủ động trên chiến trường nhưng thất bại. Cuối cùng, Nava đưa quân chủ lực lên Điện Biên Phủ, xây dựng tập đoàn cứ điểm mạnh, khổng lồ để nghiền nát “chủ lực Việt Minh”.
Nhưng sau 56 ngày đêm chiến đấu (13/3 - 7/5/1954), quân và dân ta đã đập tan cố gắng quân sự cao nhất của thực dân Pháp, làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc Pháp ký Hiệp định Giơnevơ, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Miền Bắc nước ta được giải phóng. Cách mạng Việt Nam bước vào một thời kỳ mới: Thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc.
Có thể khẳng định rằng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh là văn kiện có giá trị lịch sử đặc biệt: Khẳng định quyết tâm sắt đá của dân tộc Việt Nam bảo vệ độc lập, tự do; thể hiện tư tưởng đại đoàn kết “bất kỳ đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ”, toàn dân đánh giặc; Chỉ ra quy luật thắng lợi của cuộc kháng chiến: kiên trì, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính; trở thành nguồn động lực tinh thần to lớn, hun đúc chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. 79 năm đã trôi qua nhưng âm hưởng của Lời kêu gọi vẫn vang vọng, soi sáng con đường xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hôm nay và mai sau.
Ngày nay, đất nước sau gần 40 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; nhưng bối cảnh mới đặt ra không ít khó khăn, thách thức cho dân tộc ta. Kỷ niệm Ngày Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946 - 19/12/2025), chúng ta càng thêm biết ơn, trân trọng những hy sinh, cống hiến của các thế hệ đi trước; đồng thời khơi dậy mạnh mẽ lòng yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết toàn dân tộc. Đó chính là nền tảng để thực hiện thắng lợi mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Mai Đức Thượng