Ngày 03/9/1945, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chính phủ Lâm thời đã họp phiên họp đầu tiên, trong phiên họp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày với Chính phủ rằng: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do, dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ”. Có thể thấy, “Hiến pháp dân chủ” phải là một bản hiến pháp do nhân dân làm chủ, có nội dung và cách thức ban hành dân chủ. Ðồng thời là phương tiện để cho nhân dân được hưởng quyền tự do, dân chủ. Ngược lại, dân chủ là điều kiện cần và đủ cho một bản “hiến pháp dân chủ” ra đời, tồn tại và phát huy giá trị.
Để rồi, ngày 09/11/1946, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (kỳ họp thứ 2, Khóa I) đã thông qua bản Hiến pháp năm 1946 với 240/242 đại biểu tán thành. Sự kiện này đánh dấu một bước nhảy vọt trong đời sống chính trị của dân tộc Việt Nam và lịch sử lập pháp Việt Nam khi lần đầu tiên một thiết chế Nhà nước dân chủ được tổ chức trên một nền tảng chính trị, pháp lý theo quan điểm, nguyện vong và mục tiêu của toàn dân được ghi nhận trong đạo luật cơ bản nhất của một Nhà nước.
Hiến pháp năm 1946 gồm Lời nói đầu, 7 chương và 70 điều, trong đó quy định rõ về Chính thể (Chương I), Nghĩa vụ và quyền lợi công dân (Chương II), Nghị viện nhân dân (Chương III), Chính phủ (Chương IV), Hội đồng nhân dân và ủy ban hành chính (Chương V), Cơ quan tư pháp (Chương VI), Sửa đổi Hiến pháp (Chương VII).
Hiến pháp năm 1946 được viết ngắn gọn, rõ ràng, chặt chẽ, đồng thời khẳng định được những nguyên tắc cơ bản của lập pháp. Đây là một bản Hiến pháp tiến bộ, vì lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, những nét đặc trưng về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, tự do và dân chủ đã được khẳng định. Đặc biệt, Hiến pháp năm 1946 thể hiện cụ thể về mặt pháp lý tư tưởng độc lập, tự do, quan điểm lấy dân làm gốc, quan điểm quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trước hết, hiến định Nhân dân là chủ
Hiến pháp năm 1946 khẳng định chủ thể của quyền lập hiến thuộc về quốc dân, “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” (Điều 1).
“Quyền bính” ghi trong Hiến pháp chính là quyền lực, bao gồm quyền lực trong nhà nước và quyền lực trong xã hội. Tất cả mọi quyền lực ấy đều thuộc về nhân dân. Điều đó được thể hiện: Dân bầu ra Nghị viện nhân dân và Nghị viện nhân dân thành lập ra Chính phủ. Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất (Điều thứ 43); Nghị viện nhân dân là cơ quan lập pháp (Điều thứ 23), có quyền “biểu quyết những dự án sắc luật của Chính phủ”, “quyền kiểm sát và phê bình Chính phủ (Điều thứ 36)… Đây chính là cơ sở chính trị - pháp lý cao nhất để nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước và buộc nhà nước phải chịu sự kiểm soát của nhân dân và chịu sự kiểm soát việc thực thi quyền lực nhà nước mà nhân dân giao cho.
Điều thứ 18 quy định: “Tất cả công dân Việt Nam, từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt gái trai, đều có quyền bầu cử, trừ những người mất trí và những người mất công quyền”. Vậy, nhân dân là người bầu ra đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Đồng thời, “Nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra” (Điều thứ 20).
Hiến pháp 1946 quy định, nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia (Điều 21). Đây là một quy định quan trọng và rất tiến bộ, bảo đảm cho nhân dân tham gia sinh hoạt chính trị dân chủ, bày tỏ chính kiến của mình. Quyền phúc quyết Hiến pháp ghi trong Hiến pháp 1946 đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị, đặc biệt có ý nghĩa khi Quốc hội đã ban hành Luật Trưng cầu ý dân.
Thứ hai, hiến định Nhân dân làm chủ
Dân làm chủ tức là xác định quyền và nghĩa vụ công dân. Nội dung này được quy định cụ thể tại Chương 2, gồm 3 mục (Mục A, B, C), với 18 điều để quy định về quyền và nghĩa vụ công dân, bao gồm các quyền về chính trị, quyền tự do cá nhân; các quyền kinh tế - xã hội và các quyền về văn hóa. Qua đó thể hiện bản chất thực sự dân chủ, giá trị nhân văn cao quý về bản chất của một nhà nước dân chủ ưu việt, như phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại phiên bế mạc kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa I: “Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới biết dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới: phụ nữ Việt Nam đã được đứng ngang hàng với đàn ông để được hưởng chung mọi quyền tự do của một công dân”.
Về nghĩa vụ công dân. Hiến pháp năm 1946 quy định về nghĩa vụ công dân tại Điều thứ 4: “Mỗi công dân Việt Nam phải: - Bảo vệ Tổ quốc; - Tôn trọng Hiến pháp; - Tuân theo pháp luật”, Điều thứ 5: “Công dân Việt Nam có nghĩa vụ phải đi lính”. Đi lính không chỉ có nam giới, mà nữ giới cũng phải thực hiện nghĩa vụ này, quy định đó đã nói lên quyền bình đẳng giới, điều đó bổ sung, minh họa cho Điều thứ 9 “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”.
Về quyền công dân được quy định tại mục B và mục C, Chương 2 - Hiến pháp năm 1946 với 15 điều. Trong số đó, quy định về quyền bình đẳng như “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hoá” (Điều 6), “Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình” (Điều 7), Điều thứ 8 quy định “Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để chóng tiến kịp trình độ chung”. Có thể thấy, và sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ của tất cả công dân Việt Nam được Hiến pháp thừa nhận, đã thể hiện rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về việc xây dựng Nhà nước của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, qua đó, tạo điều kiện cho việc huy động, phát huy và nhân nguồn sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc.
Quy định về quyền lợi của công dân, bao gồm: quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, tự do đi lại trong nước và ra nước ngoài (Điều thứ 10); quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nhà ở và thư tín (Điều thứ 11); Quyền được bảo đảm về sở hữu tài sản cá nhân (Điều thứ 12); Quyền được bảo đảm về quyền lợi của trí thức và lao động chân tay (Điều thứ 13); Quyền được giúp đỡ đối với người già cả hoặc tàn tật không làm được việc, và trẻ em được quyền săn sóc về mặt giáo dưỡng (Điều thứ 14); Quyền được học tập theo chương trình phổ cập là sơ học và không phải đóng học phí đối với mọi công dân, học sinh nghèo được Chính phủ giúp, các dân tộc thiểu số có quyền học bằng tiếng dân tộc mình, trường tư được mở tự do nhưng phải dạy theo chương trình của Nhà nước (Điều thứ 15); Đối với những người ngoại quốc đấu tranh cho dân chủ và tự do mà phải trốn tránh thì có quyền được trú ngụ trên đất Việt Nam (Điều thứ 16). Đây cũng là lần đầu tiên, người dân Việt Nam được xác nhận có tư cách công dân của một nước độc lập, có chủ quyền.
Có thể thấy, Hiến pháp năm 1946 ra đời trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, phức tạp, nhưng với những chế định cụ thể, đã tạo cơ sở pháp lý để Nhân dân thực hiện quyền lực của mình. Việc khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân là sự thể hiện trực tiếp nguyên lý về chủ quyền Nhân dân - tư tưởng nền tảng trong các bản Hiến pháp của Việt Nam sau này. Thực tiễn việc bảo đảm trong thực tế “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” đi liền với việc khẳng định “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ”, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là nhà nước “của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” là một trong những biện pháp quan trọng hàng đầu bảo đảm tính chính danh, chính đáng của hệ thống chính quyền ở nước ta, là một trong những biện pháp quan trọng hàng đầu bảo đảm sự bền vững của một chế độ.
Là bản “Hiến pháp đầu tiên trong cõi Á Đông”, là sự kết tinh của những giá trị cao cả của thời đại, thể hiện rõ tư tưởng pháp quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thể hiện khát vọng của Nhân dân về bảo vệ nền độc lập dân tộc, bảo toàn lãnh thổ, đoàn kết toàn dân, đảm bảo các quyền tự do dân chủ và xây dựng chính quyền nhân dân mạnh mẽ, sáng suốt. Hiến pháp đặt cơ sở pháp lý quan trọng cho tổ chức Nhà nước; cho việc xây dựng hệ thống luật lệ ở nước ta. Nội dung, tư tưởng của Hiến pháp 1946 được thể hiện ở những giá trị lịch sử, giá trị pháp lý và đặc biệt là giá trị nhân văn, tính nhân văn cao cả. Đó là những giá trị lớn và bền vững nhất như sợi chỉ đỏ xuyên suốt nội dung và tinh thần của Hiến pháp năm 1946.
Cẩm Trang - Thanh Thảo