Hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả từ tầm nhìn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến sự vận dụng của Đảng ta In trang
29/08/2025 02:50 CH

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại. Bảo đảm trên hết và trước hết lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”[1]. Có thể thấy, 40 năm đổi mới, tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam đã đạt những kết quả quan trọng, mang tầm vóc lịch sử.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế bao hàm những nguyên lý, nội dung, phương pháp, phong cách và nghệ thuật ngoại giao. Người đề cao các quyền dân tộc cơ bản, bao gồm độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước, hòa bình và chống chiến tranh xâm lược. Người nhấn mạnh ngoại giao, “phải luôn luôn vì lợi ích của dân tộc mà phục vụ”[2]; độc lập tự chủ, tự lực tự cường phải gắn liền với đoàn kết và hợp tác quốc tế, theo đó Việt Nam sẵn sàng “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”[3]. Người hết sức coi trọng tình hữu nghị và hợp tác với các nước láng giềng có chung biên giới; phối hợp mặt trận ngoại giao với mặt trận quân sự, chính trị; mở rộng bang giao với các nước trong khu vực và trên thế giới; xử lý tốt quan hệ với các nước lớn để phục vụ lợi ích cách mạng…Người khẳng định: “Cuộc đấu tranh kiên quyết của các dân tộc bị áp bức nhất định sẽ đánh bại bọn đế quốc thực dân. Chủ nghĩa xã hội cuối cùng sẽ toàn thắng trên khắp thế giới. Trong sự nghiệp đấu tranh vĩ đại ấy, sự đoàn kết giữa lực lượng các nước xã hội chủ nghĩa và sự đoàn kết nhất trí giữa các đảng cộng sản và công nhân tất cả các nước có ý nghĩa quan trọng bậc nhất”[4].

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt Việt Nam vào sự phát triển chung của thế giới, “Mọi người đều phải theo trào lưu cách mạng thế giới...Việt Nam là một bộ phận của thế giới, cũng không thể đi ngược dòng lịch sử được”[5]. Người nhấn mạnh: “Nước ta là một bộ phận của thế giới. Tình hình của nước ta có ảnh hưởng đến thế giới mà tình hình thế giới cũng có quan hệ đến nước ta”[6]. Trong đó, trong mục tiêu cốt lõi là phải đặt lợi ích dân tộc, đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu, “muốn làm gì cũng cần vì lợi ích dân tộc mà làm”[7], “phải luôn luôn vì lợi ích của dân tộc mà phục vụ”[8].

Độc lập tự chủ, tự lực tự cường gắn liền với đoàn kết, hợp tác quốc tế: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào”[9]. Song, với Hồ Chí Minh, độc lập tự chủ không có nghĩa là khép kín mà có mối liên hệ hữu cơ với đoàn kết và hợp tác quốc tế. Theo đó, Người chủ trương quan hệ tốt với tất cả các nước, trong đó, ưu tiên thúc đẩy quan hệ tốt với các nước láng giềng, các nước trong khu vực và các nước lớn.

Trong quan hệ với các nước lớn, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thể hiện sự nhạy bén, giữ vững các nguyên tắc bất biến là độc lập, tự chủ, quan hệ hữu nghị, song mềm dẻo và linh hoạt về sách lược theo tinh thần “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò quan trọng của ngoại giao là một mặt trận, phối hợp chặt chẽ với quân sự, chính trị, kinh tế và văn hóa thành sức mạnh tổng hợp, bởi “Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”[10]; “mình phải có sức mạnh thì ngoại giao sẽ thắng”[11].

Đảng ta từng bước hoàn thiện đường lối đối ngoại toàn diện, rộng mở

Kế thừa, vận dụng sáng tạo tư duy, bản lĩnh hội nhập quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bước vào thời kỳ Đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã sớm xác định nhiệm vụ trọng tâm của hội nhập quốc tế là tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định cho mục tiêu phát triển kinh tế. Nghị quyết Trung ương 13 khóa VI (tháng 5/1988) nhấn mạnh chính sách thêm bạn, bớt thù, đa dạng hóa quan hệ trên nguyên tắc độc lập, chủ quyền, cùng có lợi, đây được coi là văn kiện đánh dấu sự hình thành đường lối đối ngoại của Đảng ta cho thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước.

Văn kiện Đại hội VIII của Đảng (năm 1996), lần đầu tiên khái niệm “hội nhập” được đề cập: “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả”[12].

Đến Đại hội IX (năm 2001), chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế tiếp tục được nhấn mạnh: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”[13]. Quan điểm về hội nhập kinh tế quốc tế được thể hiện cụ thể trong Nghị quyết số 07-NQ/TW, ngày 27/11/2001, của Bộ Chính trị khóa IX “Về hội nhập kinh tế quốc tế”.

Đại hội X của Đảng (năm 2006) khẳng định chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế và nêu định hướng “đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác”[14]. Đặc biệt, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10/4/2013 “Về hội nhập quốc tế”. Đây là văn kiện có ý nghĩa chiến lược, thống nhất nhận thức về hội nhập quốc tế trong tình hình mới, xác định mục tiêu, quan điểm chỉ đạo và phương hướng nhiệm vụ hội nhập quốc tế của Việt Nam giai đoạn tới.

Ngày 24/01/2025 của Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 59-NQ/TW về “Hội nhập quốc tế trong tình hình mới”, xác định hội nhập quốc tế là “quyết sách đột phá”, đánh dấu bước ngoặt có tính lịch sử trong quá trình hội nhập của đất nước với việc định vị hội nhập quốc tế là động lực quan trọng đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới. Hội nhập quốc tế là chiến lược quan trọng nhằm củng cố vị thế chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh quốc gia, nâng tầm ảnh hưởng của đất nước trên bản đồ thế giới trong bối cảnh mới hiện nay.

Bên cạnh đó, Nghị quyết 59-NQ/TW cũng nhấn mạnh việc chuyển đổi tư duy trong hội nhập quốc tế: từ nước “đi sau, tham gia, ký kết, gia nhập” sang “tích cực triển khai, thực hiện, góp phần xây dựng, định hình” các khuôn khổ hợp tác, luật chơi mới, không chỉ thu hút nguồn lực mà phải sẵn sàng chủ động “chia sẻ, đóng góp nguồn lực” cho các vấn đề chung của quốc tế; nhiệm vụ “đẩy mạnh đối ngoại và hội nhập quốc tế là trọng yếu, thường xuyên”. Xác định hội nhập quốc tế lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể; chuyển trạng thái sang chủ động, tích cực hội nhập sâu rộng, thực chất, hiệu quả…

Có thể thấy, trong thế giới phụ thuộc lẫn nhau như ngày nay, sự phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc không thể biệt lập, đứng bên ngoài những tác động của thế giới và thời đại, của thời cuộc và cục diện của nó. Do đó, để phát triển, các quốc gia cần phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, tham gia hội nhập quốc tế một cách chủ động, linh hoạt để bắt nhịp xu thế chung, tranh thủ cơ hội, đối phó thách thức và không ngừng nâng cao vị thế để phát triển.

 

 

Cẩm Trang

 

[1] ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb. CTQG, Sự thật, HN 2021, tập 1, tr.161-162.

[2] Bác Hồ nói chuyện tại Hội nghị ngoại giao 1964. Hồ sơ lưu trữ Bộ Ngoại giao Việt Nam.

[3] Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, H.2011, tập 5, trang 256.

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXb CTQG, HN, 2011, tập12, tr 674-675.

[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb.CTQG, HN.2011, t.3, tr.464-465.

[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXb CTQG, HN, 2011 t.7, tr.173.

[7] Hồ Chủ tịch nói chuyện với hội nghị ngoại giao năm 1964, tài liệu lưu trữ tại Bộ Ngoại giao.

[8] Hồ Chủ tịch nói chuyện với hội nghị ngoại giao năm 1964, tài liệu lưu trữ tại Bộ Ngoại giao.

[9] Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXb CTQG, HN, 2011, t.5, tr.136.

[10] Hồ Chí Minh Toàn tập, NXb CTQG, HN, 2011, t.4, tr.126.

[11] Hồ Chủ tịch nói chuyện với hội nghị ngoại giao năm 1964 và 1966, tài liệu lưu trữ tại Bộ Ngoại giao

[12] Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (phần I), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr. 690

[13] Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (phần I), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr.878

[14] Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (phần II), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr.123.

Lượt xem: 19
Văn bản mới
  • 194-CV/BTGDVTU 28/08/2025 Tăng cường công tác tuyên truyền kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và ...
  • 122-CV/BTGDVTU 13/08/2025 Tuyên truyền triển lãm kỷ niệm 110 năm Ngày sinh Tổng Bí thư Nguyễn Văn ...
  • 123-CV/BTGDVTU 12/08/2025 Tuyên truyền, phổ biến, quán triệt sử dụng Sổ tay đảng viên điện tử
  • 04-KH/BTGDVTU 05/08/2025 Kế hoạch Tổ chức phát động quần chúng, nắm tình hình Nhân dân 6 tháng ...
  • 1670-CV/BTGDVTW 01/08/2025 V/v điều tra dư luận xã hội về công tác xây dựng khối đại đoàn ...
Liên kết website

Thống kê truy cập
  • 005926424
  •  Đang online: 35
  •  Trong tuần: 7.659
  •  Trong tháng: 7.659
  •  Trong năm: 919.465